Tháp Bà Ponagar thuộc phường Vĩnh Phước, thành phố Nha Trang, là một quần thể kiến trúc được phân bố trên 3 mặt bằng: Tháp Cổng, Mandapa và khu đền tháp. Do biến động của lịch sử, hiện nay khu di tích còn lại 5 công trình kiến trúc ở hai mặt bằng: Mandapa và khu đền Tháp.
1. Mandapa
Khu vực Mandapa: có bốn hàng cột lớn xây bằng gạch nung, bao gồm 10 cột lớn phía trong và 12 cột nhỏ hình bát giác ở phía ngoài. Qua nghiên cứu, các nhà khoa học cho rằng, đây là kiến trúc hở tường bao và có mái che bằng các vật liệu nhẹ, vì trên mỗi cột lớn, tương ứng với chiều cao cột nhỏ đều có “lỗ mộng”. Trải qua thời gian, hiện nay không còn dấu vết mái che của Mandapa. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây có thể là nơi các tín đồ chuẩn bị các lễ vật trước khi lên hành lễ ở các tháp phía trên.
Đi lên hành lễ ở các tháp, các tín đồ phải đi theo các bậc rất dốc. Trải qua thời gian, lối đi này đã bị sạt lở, khó đi hơn nên người xưa mở đường bên cạnh, men theo sườn đồi lên tháp, đường mới này ít dốc hơn, dễ đi lại với các bậc xây bằng đá chẻ. Trước đây, phía Đông Mandapa còn có hai cột nhỏ, thấp hơn nền ở hai bên bậc lên xuống Mandapa (nay không còn). Khi tu bổ di tích, người ta đã phát hiện ra những bậc tam cấp dẫn lên Mandapa và thẳng với cổng chính trước đây của di tích, là nguồn cứ liệu góp phần khẳng định đường trục thần đạo của Pô Nagar: Cổng - Mandapa - các bậc cấp lên khu đền tháp - tháp Chính. Kiến trúc Mandapa có niên đại khoảng thế kỷ XI.
2. Khu đền tháp
Theo sử sách và những kết quả khảo sát thực địa, khu đền tháp này có tất cả sáu tháp. Ngoài bốn tháp hiện hữu, còn có hai tháp ở khu vực phía sau, nhưng hiện nay chỉ còn nền móng của tháp cũ. Người Chăm gọi tháp là Kalan, dịch sang tiếng Việt nghĩa là đền, tháp. Các tháp Chăm ở đây được xây dựng theo bình đồ hình vuông. Mỗi tháp đều có bốn cửa ở bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Ba cửa ở ba hướng Tây, Nam và Bắc chỉ là những ô cửa giả. Riêng cửa phía Đông được mở ra và kéo dài như một tiền sảnh.
Tháp Đông Bắc
Tháp Chính, tháp cao khoảng 23m. Theo các nhà nghiên cứu, niên đại của tháp Chính được xây dựng lần đầu tiên vào các năm 813 – 817 và trải qua những biến cố của lịch sử, tháp đã được xây dựng lại vào khoảng giữa thế kỷ XI.
Trên thân tháp được trang trí bằng 5 hàng trụ áp tường chạy dọc. Bốn góc mái có bốn tháp nhỏ với 3 tầng mái thu nhỏ dần về phía trên. Hệ mái của tháp được ví như ngọn núi Mêru, nơi ở của các vị thần, với năm ngọn núi mà đỉnh ở giữa cao nhất. Trên hệ mái được trang trí những linh vật như: voi, ngỗng, dê...
Trên vòm cửa là tấm phù điêu bằng đá hình lá đề thể hiện thần Shiva với bốn cánh tay đang múa, hai bên có hai nhạc công thổi sáo, chân phải Shiva đặt trên lưng bò thần Nandin. Phù điêu có niên đại thế kỷ XI và là một trong những tấm phù điêu đẹp nhất của văn hóa Chăm pa còn được lưu giữ ở Việt Nam.
Trên những trụ đá ở cửa là những bia ký khắc chữ Sancrit và chữ Chăm cổ ghi chép về việc xây dựng đền tháp và cúng dường lễ vật của các vua, chúa và hoàng tộc Chăm lên Nữ thần và việc Nữ thần ban phúc lành cho muôn dân.
Trích dẫn một bia ký: Nữ thần của Kauthara, người có tấm thân rực sáng bởi vẻ đẹp và tấm choàng tuyệt hảo bằng vàng, người có khuôn mặt ngời sáng rạng rỡ và đẹp đẽ như đóa hoa sen và đôi má sáng chói bởi ánh sáng của ngọc ngà châu báu, đã luôn ban phước cho tất cả những ai quỳ xuống cầu nguyện trước mặt mình.
Bên trong tháp là điện thờ hình vuông, chính giữa đặt tượng thờ Nữ thần Ponagar. Theo bia ký, năm 918 tượng thờ được tạc bằng vàng, nhưng năm 950 bức tượng bị quân Khơme cướp đi. Mười lăm năm sau, tức năm 965 vua Sri Jaya Indravaman cho dựng lại pho tượng bằng đá như hiện nay, người Chăm tiếp tục thờ phụng Nữ thần. Đầu thế kỷ XX, đã mất đầu tượng và 02 tay, hiện nay đầu pho tượng được phục chế lại, sơn son thếp vàng, khoác xiêm y. Hai bên là ban thờ Cô và Cậu. Trong tháp, trên mỗi ô cửa giả có những hình tam giác nhỏ được khoét sâu vào tường, đây là nơi đặt đèn dầu của đền thờ.
Tháp Nam
Tháp cao 18m, có quy mô lớn thứ hai trong toàn bộ tổng thể kiến trúc ở khu đền tháp Ponagar. Ngôi tháp có bộ mái tương đối lạ trong quần thể kiến trúc Tháp Bà. Phần đế và thân của tháp vẫn được xây theo mô típ tháp Chăm truyền thống song phần mái được thu gọn lại thành một tầng chóp, kéo dài lên phía trên, đỉnh đặt 01 trụ linga. Tháp có niên đại thế kỷ XIII.
Đây là nơi thờ thần Shiva. Theo truyền thuyết của người Việt gọi là tháp Ông, thờ chồng của Thiên Y A Na Thánh Mẫu.
Tháp Đông Nam
Ngôi tháp có quy mô nhỏ nhất, cao 7,1m, mái cong hình yên ngựa. Đây có thể là kiến trúc phụ trong quần thể kiến trúc này và thuộc loại muộn, khoảng thế kỷ XI - XII. Tháp thờ thần Skandha – con thần Shiva là vị thần tượng trưng cho sức mạnh, chiến tranh. Theo truyền thuyết của người Việt, tháp thờ ông bà Tiều là cha mẹ nuôi của Thiên Y A Na Thánh Mẫu.
Tháp Tây Bắc
Tháp cao 9m, là ngôi tháp duy nhất còn khá nguyên vẹn về kiến trúc và trang trí. Trên mỗi ô cửa giả đều có hoa văn trang trí hình các linh vật, được chạm trổ tinh xảo trên nền gạch nung. Trên ô cửa giả phía Nam là hình ảnh chim thần Garuda, ô cửa giả phía Bắc là hình ảnh thần Kala - vị thần thời gian, ô cửa giả phía Tây là hình tượng nữ thần cưỡi voi. Tháp chỉ có một tầng và tầng mái cong mô phỏng hình chiếc thuyền, đầu hồi trang trí các mô típ lá đề cong nhọn, uốn vào trong, phô ra hai trán nhà có chạm khắc một vị thần ngồi dưới tán của các đầu rắn Nagar. Đây là tháp thờ thần Ganesha – vị thần biểu tượng của may mắn, trí tuệ và hạnh phúc. Theo truyền thuyết của người Việt, tháp thờ Cô, Cậu (con của Thiên Y A Na Thánh Mẫu).
Theo bia kí và khảo cổ học, tháp có niên đại xây dựng năm 817 song đã được trùng tu nhiều lần, nên niên đại cuối cùng khoảng thế kỷ XIII.
Linh vật thờ ở trong các đền tháp Chăm là Linga và Yoni (một trong những biểu tượng thờ thần Shiva). Linga và Yoni là biểu tượng mong ước cầu cho con người và vạn vật luôn sinh sôi, nảy nở và phát triển để cuộc sống luôn no đủ, hạnh phúc, sum vầy.
Bia ký
Phía sau Tháp chính có bia do Phan Thanh Giản - một vị quan Thượng thư bộ Lễ dưới triều Nguyễn ghi chép, biên soạn và cho khắc vào năm 1856 (triều vua Tự Đức), bằng chữ Hán - Nôm nói về truyền thuyết Thiên Y A Na Thánh Mẫu của người Việt.
Bia thứ hai do 8 vị quan tỉnh Khánh Hòa, Bình Thuận lập năm 1871.
Bia thứ ba kể về truyền thuyết Thiên Y A Na Thánh Mẫu.
Bia thứ tư, giới thiệu về di tích Tháp Bà Ponagar.